“Tôm kho tàu” – Món ngon của người dân Nam kỳ Lục tỉnh

Tôm kho tàu là tên gọi khác của món tôm càng xanh kho tàu. Tôm càng xanh “làm ổ” ở miệt Kiên Giang và Cà Mau. Tôm kho tàu là món không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp của xứ Nam kỳ Lục tỉnh. Nấu món tôm kho tàu ngon trở thành thước đo về “công” của phụ nữ miền đất này.

Tôm càng xanh kho tàu. Ảnh: A.T

Có thể mạnh miệng nói rằng, tôm kho tàu là món đặc sản Nam kỳ. Theo văn liệu trong các tiểu thuyết của nhà văn rặt Nam kỳ Hồ Trường An, “hễ đãi đằng là có món tôm kho tàu”. Ngoài giọng văn “chửi” xuất sắc, ông còn viết về những món ăn miền Nam, khi liệt kê, khi tả cách làm…

Có người nói tôm kho tàu là món ăn của nhà giàu. Điều đó chỉ đúng một nửa. Những người dân khẩn hoang vào đầu thế kỷ trước không thể gọi là giàu, nhưng vùng đất họ ở, con tôm càng xanh tự nhiên rất nhiều. Khi có dịp đãi khách, khi đám cưới đám giỗ, mấy ngày tết…, canh bắt mớ tôm càng xanh để kho tàu. Trong ao, trong đìa, trong mương, chỉ cần lội xuống dậm cho dậy bùn là tôm ngoi đầu quơ rau đỏ au. Nhất là vào độ cuối năm, khi chuẩn bị xả nước để làm đất gieo sạ lúa mùa sau, nước rút xuống những chỗ trũng, xách rổ đi tới những nơi ấy tha hồ bắt.

Nam Kỳ Lục tỉnh có nhiều tôm càng xanh…

Hãy nghe nhân vật Hai Nguyệt Thanh, trong Gả thiếp về vườn của Hồ Trường An, quê Vĩnh Long lấy chồng tận dưới U Minh Thượng, về nhà cha mẹ ruột sanh con so, lên giọng: “Xời ơi, con cá lóc xứ Vãng(1) mình sao mà ốm o đèo đẹt! Tôm trứng cỡ ngón tay nhiều mà tôm càng cỡ cườm tay ít nên mắc như vàng. Xứ sở của chồng tui bị thiệt hại (không trồng được nhiều) về trái cây nhưng được xôm về tôm cá. Tôm càng dưới đó rẻ rề, mỗi lần ăn tôm, lấy gạch ra cầu cả chén”.

Ngày xưa món tôm kho tàu không bị nghiễn (dị bản…, phương ngữ miền Trung) ra nhiều thứ như bây giờ. Có nhà chỉ ướp tôm bằng muối hột giã nhuyễn. Khi đã trộn đôi ba lần cho muối thấm đều, cho mớ tôm lột vỏ vào nồi rồi lửa riu riu trên bếp củi, dùng đũa trở qua trở lại cho tôm chín đều. Chén gạch để riêng khi lột vỏ tôm được cho vào một trả nhỏ bắc lên bếp. Gạch tôm chín ngả màu đỏ quạch. Nhúng từng con tôm thật đều. Tôm lại được hóa kiếp một lần nữa trên bếp lửa riu. Khi gạch đã bám chắc lên tôm, người ta cho một ít nước dừa vào kho cho cạn nước, hương thơm ngát tỏa khắp gian bếp.

Tôm càng xanh kho tàu – Món ngon nhứt của người dân Nam kỳ Lục tỉnh. Ảnh: A.T

Nấu củi còn là một sự lợi hại khác. Một bà già nhà quê vì ly loạn nên phải ra phố sinh sống, phải xài bếp dầu để nấu nướng, tâm sự cùng cùng con gái, chàng rể và con bé cháu ngoại của bà: “Nè, củi mỗi thứ mỗi khác đó nghe. Cùi bắp phơi khô để làm củi, ngọn lửa xanh như lửa đèn cồn. Vỏ măng cụt phơi khô, chụm nó nổ lách tách y như than Cà Mau. Củi nhánh sao chết rụng trên vệ đường, nó cháy rồi tỏa ra cái mùi thời tiết gió bấc về. Còn mầy biết củi gì thơm ngát không? Đó là dăm tiện (2)”.

Món tôm kho tàu ngày xưa đơn giản, như đang giỡn. Bây giờ, tôm càng xanh nuôi thường không có gạch, hoặc rất ít gạch, vì không có chỗ nước lợ đúng độ cho chúng đi đẻ chăng? Không có gạch hoặc ít gạch nên phải viện đến dầu điều. Phải tao tôm với dầu thay vì mỡ heo xắt hạt lựu ngày xưa. Phải bỏ đầu nhưng giữ cái đuôi cho đẹp. Phải lấy sợi chỉ đen cho khỏi tanh dù là một thứ hương vị đối với người sành ăn thủy sản. Một tác giả viết trên blog vickypham.com: “Tôi vẫn thích giữ lại đầu và đuôi tôm khi làm tôm kho tàu. Không chỉ nó trông đẹp mắt mà còn tăng thêm hương cho món ăn”. Chứng tỏ người viết không viết lấy được. Ẩm thực là một chặng đường được nghiễn chuyện dài dài để tạo ra các phiên bản độc dị hơn. Có người còn ăn tôm với cơm vắt nướng mà phải nướng với lá đước cho thơm mùi khói. Thậm chí có người còn nghiễn ra phiên bản cho trứng cút kho vào món ấy.

Món tôm kho tàu là món ngon nhất suốt một thời đối với người miền Nam. Nhưng tôm kho tàu một mình không thể ngon trọn vẹn. Tôm kho tàu chỉ ngon khi ăn với cơm nấu bằng gạo thơm lúa mùa như lúa tào hương, nàng thơm…

Nhưng cái món được cho là ngon nhất đó lại bị phá bỉnh vì câu ca dao: “Giữa trưa đói bụng thèm cơm/ thấy đùi em vợ như tôm kho tàu”. Nghĩa là hai ‘món’ ngon bằng nhau?

Ngữ Yên

———————–

(1). Theo Huỳnh Hữu Đức, người dân xưa quen gọi tắt Vĩnh Long là Vãng. Từ địa danh Vũng Luông – Kompong Luông; biến dần ra Vũng Luông, rồi Vãng Luông. Tên Vĩnh Long có từ năm 1832 khi vua Minh Mạng đổi ra Hán tự.

(2). Bình Nguyên Lộc, Lửa tết, tr. 66, 67. Dăm tiện là dăm bào từ máy tiện, thường là từ các loại gỗ quý như trắc, cẩm lai, huỳnh đàn…

Có thể bạn quan tâm: