Chữ nghĩa ẩm thực và những “nghi án”

Tán chút đỉnh chuyện ngôn ngữ ẩm thực. Từ một câu chuyện của một người nói tiếng Tây “ba chỉ”, “mêm – xối – xiên” (même chose chien) đặt cho món giả cầy, rồi đến món gà xé phay…

Món dê giả chó
Món dê giả chó chính là món “mêm – xối – xiên” (même chose chien). Hình: A.T

1. “mêm – xối – xiên”

Trong cuốn Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển có kể lại một giai thoại về món “mêm xối xiên”: “Tôi chép ra, nhưng xin cô bác đừng hỏi nhiều vì không bảo lãnh đúng sự thực. Tương truyền vào một dịp đầu xuân, một ông đem dâng cho một quan Lang Sa quà tết: một con dê xồm béo mỡ kịp đút lò đêm giao thừa. Quan hỏi: “Con gì? Ông cho tôi con gì đó?”. Quýnh quá quên phứt, không nhớ rõ “bouc” hay “chèvre”, thôi thì tả hình dạng nó cũng được: “Luỹ”, “mêm – xối – xiên”, “dà -na – bắp”, “dà – na – cót” (lui même chose chien, il y a barbe, il y a corne, dịCh: nó giống con chó, có râu, có sừng). Câu này đúng nguyên văn hay chăng, tôi không dám chắc. Điều tôi dám chắc là quan đút lò “dê xồm” ăn ngon lành. Từ đó câu kia đã để đời trở nên bất hủ. Gần đây trong Nam còn ưa nói với nhau thành ngữ “mêm – xối – xiên” để thế cụm từ “đồng một thể như nhau”.

Heo giả chó
Món heo giả chó quen thuộc từ Bắc vào Nam. Hình: A.T

Phải nói ông nói tiếng Tây trên có năng khiếu thiên bẩm của một nhà tự điển học khi đưa ra định nghĩa về con dê. Cũng đáng khen lắm chớ!

Rồi dân gian lại thông minh hơn khi dùng ngữ “mêm – xối – xiên” để chỉ món ăn độc đáo của Việt Nam. Đó là món “giả chó” vì nói là một món thịt, ngày xưa thường là thịt heo, bây giờ có thêm thịt dê, nấu với các thứ gia vị giống như dùng để nấu thịt chó nên nó đúng là “mêm – xối – xiên”. Theo Lãng Nhân, nhóm chữ nầy, tuy rằng bắt đầu do một người ít học dùng, sau đó lại là nhóm chữ được phổ thông một thời. Người ta dùng trong văn nói với giọng bông đùa.

2. Gà xé phay

Một chuyện khác, chuyện đồng âm của từ “phay”. Có ông bạn khá rành tiếng Tây, lập nguyên một bảng đối chiếu các từ Việt gốc Pháp. Tôi email hỏi ổng, “phay” trong gà xé phay có phải từ chữ “fraise” tiếng Pháp mà ra không, cũng như nhiều vị xử ép phở là từ “pot au feu”, rồi bánh mì là từ “pain de mie”.

Món gà xé phay
“Phay” trong món gà xé phay có liên quan gì đến từ “fraise” trong tiếng Pháp? Hình: A.T

Ông bạn quở tôi hỏi cắc cớ, fraise là trái dâu, liên quan gì đến gà xé phay. Nhưng fraise tiếng Tây có tới mấy nghĩa lận. Fraise trong cơ khí được miệt ngoải phiên âm là “phay”. Nhưng đến chữ dao phay cả bên thợ tiện và dân gian đều dùng, theo nhiều ý kiến lại là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên. Chữ “dao” trong tự điển Việt – Bồ – La của giáo sĩ Đắc Lộ chú là xem chữ “dĕao”, giải là cao dao, dĕao sac, dĕao mlụt. Mãi đến đời ông Huình Tịnh Paulus Của, chữ “phay” được chú là gốc nôm: dao phay (dao lớn thường dùng xắt cá thịt), thịt phay (thịt luộc xắt ra từ miếng mỏng), thịt gà xé phay (thịt gà luộc xé ra từ miếng), ăn phay (ăn sạch)…

Phay trong tiếng Việt còn nhiều nghĩa nữa như phiên âm từ chữ faille tiếng Pháp: chỗ đứt gãy, lụa phay là lụa sồi, độc bình phay nghệ thuật, dàn phay máy cày dùng băm đất… “Gà xé phay” coi như gần nghĩa với phay là băm (đất).

Cháo gà xé phay
Món cháo gà xé phay của người Việt. Hình: A.T

Nói đến “gà xé phay” tưởng cũng không nên bỏ qua chính sách “cháo gà xé phay” của Pháp. Số là, vua Henri IV của Pháp được cho là một ông vua vĩ đại. Dân sử học còn nói ông là nhà chính trị thực sự đầu tiên của thế giới. Trong suốt 10 năm chiến đấu bảo vệ ngai vàng cho dòng Bourbon, ông chủ tâm công bố ý kiến quần chúng và thậm chí còn đưa ra được khẩu hiệu chính trị “do dân và vì dân”. Nhận ra con đường ngắn nhất để đi đến trái tim thần dân là bao tử, ông phán: “Trẫm muốn không có người nông dân nào trong vương quốc nghèo đến độ không thể có một con gà trong nồi cháo của người ấy vào mỗi ngày chủ nhật”. Đó không phải chính sách cháo gà xé phay là gì?

lượm trên FB

Có thể bạn quan tâm: